Thứ Hai, 27 tháng 4, 2015

Một cái chết - Stephen King

Jim Trusdale có một căn chòi nằm ở phía tây cái nông trại tồi tàn của cha gã. Khi cảnh sát trưởng Barclay cùng nửa-tá-người-đại-diện-cho-thị-trấn tìm tới đây, gã đang ngồi trên chiếc ghế cạnh lò sưởi, khoác lên mình một chiếc áo khoác bụi bặm sờn vải và đọc một số cũ của tờ Black Hills Pioneer dưới ánh đèn cầy. Dù sao thì cũng đang xem xét nó.
Trước cửa nhà đã gần như chật ních. Cảnh sát trưởng Barclay đứng đó, tay ông cầm một cái đèn cầy. “ Giơ hai tay lên rồi đi ra đây Jim. Tôi chưa rút súng đâu và cũng không muốn thế”.
Trusdale giơ hai tay đi ra, một bên tay vẫn cầm tờ báo. Gã đứng đó nhìn cảnh sát trưởng với cặp mắt dẹt màu xám. Cảnh sát trưởng nhìn lại. Bốn người đang cưỡi ngựa cùng hai người ngồi trên chiếc xe ngựa với dòng chữ “Hines Mortuary” màu vàng đã nhạt mờ in bên hông xe cũng nhìn lại gã.
“ Tôi thấy là cậu không hỏi tại sao chúng ta ở đây,” Cảnh sát trưởng Barclay nói.
“ Sao ngài ở đây, cảnh sát trưởng?”
“ Chiếc mũ của cậu đâu, Jim?”
Trusdale đưa cánh tay không cầm tờ báo lên đầu như muốn sờ lấy cái mũ, một cái mũ rộng vành màu nâu, nhưng nó không ở đó.
“ Ở trong nhà phải không?” Cảnh sát trưởng hỏi. Một làn gió lạnh quét qua thổi rạp đám cỏ hướng theo mình về phương nam. Bờm lũ ngựa bay lòa xòa trong gió.
“ Không,” Trusdale nói. “ Tôi tin là không có.”
“ Vậy đâu?”
“ Chắc tôi làm mất rồi.”
“ Leo lên thùng xe ngựa đi,” Cảnh sát trưởng nói.
“ Tôi không muốn lên thùng chở xác,” Trusdale nói. “ Đen lắm.”
“ Vận xui đã ám đủ vào cái vận mày rồi đấy,” một người đàn ông nói. “Đi lên.”
Trusdale đi ra đằng sau xe ngựa rồi leo lên. Cơn gió lại ùa tới mạnh hơn. Gã dựng cổ áo lên.
Hai người đàn ông ngồi ghế trên của xe ngựa bước xuống đứng sang hai bên. Một người rút súng ra. Trusdale nhận ra họ nhưng gã không biết tên. Họ là người dân trong thị trấn. Cảnh sát trưởng cùng bốn người khác đi vào cái chòi của gã. Một người trong đó là Hines, làm việc tang ma. Họ ở trong đó một lúc. Họ còn bới cả tro trong lò sưởi. Cuối cùng họ đi ra.
“ Không có mũ,” Cảnh sát trưởng Barclay nói. “ Và trước kia chúng tôi đã nhìn thấy nó rồi. Một cái mũ to vật vã. Có gì muốn nói về nó không?”
“ Thật tệ là tôi mất nó rồi. Bố tôi cho tôi khi ông cụ vẫn minh mẫn.”
“ Vậy nó đâu rồi?”
“ Tôi đã nói rồi, chắc là tôi làm mất rồi. Hay là bị trộm mất rồi cũng nên. Có thể lắm. Mà này, tôi đang chuẩn bị lên giường đây.”
“ Quên chuyện ngủ ngáy đi. Chiều nay anh ở thị trấn phải không?”
“ Chắc chắn là gã đã ở thị trấn,” Một người đàn ông nói khi đang leo lại lên lưng ngựa. “ Chính mắt tôi trông thấy. Đang đội cái mũ.”
“ Im đi Dave” Cảnh sát trưởng Barclay nói. “ Cậu đã ở thị trấn phải không Jim?”
“ Đúng, thưa ngài,” Trusdale nói.
“ Trong quán Chuck-a-Luck?”
“ Đúng, thưa ngài. Tôi đi bộ từ đây tới quán, uống hai cốc rượu rồi đi về nhà. Tôi đoán tôi mất mũ ở Chuck-a-Luck.”
“ Chuyện của cậu đây à?”
Trusdale nhìn lên bầu trời Tháng mười một u ám. “ Đây là câu chuyện duy nhất tôi có.”
“ Nhìn tao này, con trai.”
Trusdale nhìn ông.
“ Chuyện của mày đây sao?”
“ Tôi đã nói rồi, đây là câu chuyện duy nhất tôi có,” Trusdale nói, mắt nhìn ông.
Cảnh sát trưởng Barclay thở dài. “ Được rồi, về thị trấn nào.”
“ Tại sao?”
“ Bởi vì cậu đã bị bắt.”
“ Con mẹ nó loại bại não,” một người đàn ông nói. “ Trông nó mà thấy thằng bố nó còn sáng dạ hơn.”
Họ đi về phía thị trấn cách đây bốn dặm. Trusdale ngồi đằng sau chiếc xe tang mà run rẩy trong giá rét. Người đàn ông cầm cương ngựa hỏi Trusdale, mắt vẫn hướng về phía trước, “ Mày vừa hiếp vừa cướp tiền của con bé phải không thằng chó?”
“ Tôi không biết ông đang nói cái gì.” Trusdale nói.
Cuộc hành trình tiếp tục, đoàn người im lìm di chuyển trong tiếng gió. Trong thị trấn, mọi người đứng dàn hàng trên con phố. Lúc đầu họ yên lặng. Rồi một bà già đầu quàng một chiếc khăn nâu chạy tập tễnh ra sau chiếc xe ngựa rồi nhổ nước bọt vào Trusdale. Bà nhổ trượt nhưng đằng sau rộ lên một tràng pháo tay.
Ở nhà giam, cảnh sát trưởng Barclay đỡ Trusdale từ trên xe ngựa xuống. Gió lồng lộng thổi, trải mùi tuyết ra không gian. Các bụi-cỏ-lăn bay dọc theo đường chính tới tháp nước thị trấn rồi chất đống ở hàng rào.
“ Treo cổ thằng ấu sát đi!” một người đàn ông gào lên. Rồi có ai đó ném đá vào Trusdale. Viên đá bay xẹt qua đầu Trusdale và rơi bốp xuống vỉa hè.
Cảnh sát trưởng Barclay quay người lại, nâng cây đèn lên rồi phóng mắt vào đám đông đang tụ lại trước cửa hàng tạp hóa. “ Đừng làm thế,” ông nói. “ Đừng làm gì ngu ngốc. Mọi chuyện đã được kiểm soát.”
Cảnh sát trưởng giữ Trusdale bằng bắp tay, dẫn gã ngang qua văn phòng rồi vào phòng giam. Có hai xà lim. Barclay đưa Trusdale vào xà lim bên trái. Trong đấy có một cái giường, một cái ghế đẩu và một cái thùng rác. Trusdale định ngồi xuống ghế thì Barclay nói, “ Không. Cứ đứng đó.”
Cảnh sát trưởng nhìn quanh và thấy đội dân quân đang đứng chật ở cửa. “ Mọi người đi ra đi,” ông nói.
“ Otis”, người đàn ông tên Dave nói, “ nhỡ nó tấn công ông thì sao?”
“ Thì tôi sẽ dập nhừ nó. Cảm ơn ông đã làm tròn nghĩa vụ, nhưng giờ ông đi đi cho.”
Khi họ đi rồi, Barclay nói “ Cởi áo khoác ra đưa đây.”
Trusdale cởi chiếc áo ra và bắt đầu run lập cập. Bên trong gã chỉ mặc một chiếc áo lót cùng một chiếc quần nhung kẻ đã rách gối còn các sọc cũng đã sờn gần hết.
Cảnh sát trưởng Barclay lục các túi ở cái áo khoác và tìm thấy cuộn thuốc lá kẹp trong cuốn catalog của công ty đồng hồ R.W.Sears và một tờ vé xổ số cũ hứa hẹn sẽ đổi được ra peso . Còn có một viên bi màu đen nữa. ( DG: đồng peso: tiền tệ các nước châu Mỹ La-tinh).
“ Đấy là viên bi may mắn của tôi,” Trusdale nói. “ Tôi có từ hồi còn bé.”
“ Lộn trái túi quần ra.”
Trusdale lộn túi quần ra. Gã có một vài xu lẻ và một mẩu báo đăng tin chuyện săn bạc ở Nevada trông cũng cũ như tờ vé số Mexico vậy.
“ Cởi giày ra.”
Trusdale cởi ra. Barclay thò tay vào. Có một chiếc lỗ nhỏ ở một bên giày.
“ Giờ cởi tất ra.”
Barclay lộn trái chúng ra rồi ném sang một bên.
“ Cởi quần ra.”
“ Tôi không muốn.”
“ Tôi cũng không muốn xem có gì trong đó đâu, nhưng cởi ra đi.”
Trusdale cởi quần ra. Gã không mặc quần lót.
“ Quay người lại và dạng chân ra.”
Trusdale quay lại, hai tay nắm lấy hai bên mông rồi bạnh ra. Cảnh sát trưởng Barclay cau mày, thở dài rồi chọc một ngón tay vào lỗ đít Trusdale. Trusdale rên lên. Barclay rút ngón ra, chùi vào quần của Trusdale, đôi mày lại khẽ cau.
“ Nó đâu Jim?”
“ Cái mũ sao?”
“ Cậu nghĩ tôi chọc tay vào đít cậu hay bới chỗ tro trong nhà cậu để tìm cái mũ à? Cậu có bị ngu không?”
Trusdale mặc quần lên và cài cúc. Rồi gã đứng đó. Chân trần. Run rẩy. Mới một tiếng trước thôi, gã đang ở nhà đọc báo và tính nhóm lửa lò. Giờ tựa hồ những chuyện đó đã là dĩ vãng xa xôi lắm.
“ Cái mũ của cậu tôi đang để ở văn phòng rồi.”
“ Vậy sao ông còn hỏi tôi về nó?”
“ Xem cậu nói thế nào. Chuyện cái mũ đã xong. Chuyện tôi thực sự muốn biết là cậu giấu đồng đô-la bạc của cô bé ở đâu. Nó không có ở nhà cậu, hay trong túi của cậu, hay trong lỗ đít cậu. Có phải cậu thấy tội lỗi và ném nó đi rồi không?” ( Chú thích: đồng đô-la bạc giống xu nhưng to hơn.)
“ Tôi không biết gì về đồng đô-la bạc. Tôi có thể xin lại cái mũ được không?”
“ Không. Đó là bằng chứng. Jim Trusdale. Tôi bắt cậu vì tội giết Rebecca Cline. Cậu có gì muốn nói về chuyện đó không?”
“ Có thưa ngài. Tôi không biết Rebecca Cline nào hết.”
Cảnh sát trưởng rời xà lim, đóng cửa lại, lấy chìa khóa treo trên tường và khóa cửa. Ổ khóa rít lên ken két. Xà lim thường là chỗ trú chân cho mấy gã say xỉn và chẳng mấy khi khóa. Barclay nhìn Trusdale và nói,” Tôi thấy tiếc cho cậu, Jim. Đọa đày chốn hỏa ngục chưa bao giờ là đủ với một kẻ đang tâm làm ra chuyện như thế.”
“ Chuyện gì cơ?”
Cảnh sát trưởng lê bước đi mà không trả lời.
Trusdale ở trong nhà giam, ăn đồ ăn từ Mother’s Best, ngủ trên giường, ỉa đái vào cái thùng rác. Cứ hai ngày là cái thùng rác được dọn một lần. Cha gã không tới thăm gã. Ông cụ đã hơn tám mươi, đầu óc đã lẫn. Ở nhà ông được hai người đàn bà da đỏ chăm nom, một người Sioux và một người Cheyenne.  Đôi lúc họ đứng ở cửa căn nhà gỗ bỏ hoang hòa giọng hát thánh ca. Anh trai gã thì đang săn bạc ở Nevada.
Thỉnh thoảng lũ trẻ chạy tới hẻm ở ngoài phòng giam hò hét, “ Người treo cổ, người treo cổ, xuống đây nào.” Thi thoảng đàn ông túm tụm bên ngoài và dọa cắt của quý của gã. Một lần, mẹ Rebecca Cline tới và nói bà mà có quyền là bà treo cổ gã tức thì. “ Sao mày có thể giết con bé?” bà hỏi qua chấn song sắt ô cửa sổ. “ Con bé mới có mười tuổi. Hôm đó lại là sinh nhật nó.”
“ Bác à,” Trusdale đứng trên cái giường để nhìn được xuống người phụ nữ phía dưới. “ Cháu không giết con bác. Cháu không giết ai hết.”
“ Thằng khốn dối trá,” bà nói xong bỏ đi.
Gần như tất cả mọi người trong thị trấn đều dự lễ tang của đứa trẻ. Hai phụ nữ da đỏ cũng đi. Kể cả hai ả gái điếm trong quán Chuck-a-Luck ngày đêm tiếp khách cũng đi. Trusdale đang ngồi xổm trên chiếc thùng rác trong góc tường. Từ đây gã có thể nghe được tiếng hát.
Cảnh sát trưởng Barclay đánh điện báo tới pháo đài Pierre. Khoảng một tuần sau, tòa án lưu động tới. Vị thẩm phán tên là Roger Mizell, mới nhậm chức và còn trẻ, trông rất bảnh bao với mái tóc vàng óng phủ dài tới lưng nom như Wild Bill Hickok. Gã đeo một cặp kính mắt tròn nhỏ. Và ngay cả khi tay có đeo nhẫn cưới thì lúc ở Chuck-a-Luck và Mother’s Best, gã vẫn hiện rõ ra là một kẻ đa tình.
Trong thị trấn không có luật sư để biện hộ cho Trusdale, nên Mizell gọi George Andrews, chủ của tiệm tạp hóa, nhà trọ cũng như khách sạn Good Rest. Andrews đã học hai năm giáo dục bậc cao ở một trường kinh doanh phía Đông. Ông nói ông sẽ làm luật sư cho Trusdale chỉ khi vợ chồng nhà Cline đồng ý.
“ Vậy đi gặp họ đi,” Mizell nói. Gã đang ngả lưng trên ghế và cạo râu trong tiệm cắt tóc. “ còn chần chừ gì nữa sao.”

“ Vậy,” Ông Cline nói sau khi Andrews trao đổi với vợ chồng họ về chuyện của Trusdale, “ Tôi muốn hỏi là giờ nếu hắn không có ai biện hộ thì họ vẫn có thể treo cổ hắn chứ?”
“ Vậy thì không đúng luật pháp Hoa Kỳ,” Andrews nói.” Dù chúng ta chưa nằm trong Hợp Chủng Quốc nhưng cũng sẽ sớm thôi.”
“ Liệu hắn có luồn lách qua được vụ này không?” Bà Cline hỏi.
“ Không thưa bà,” Andrews nói. “ Tôi thấy không thể được.”
“ Vậy ông hãy làm bổn phận của mình đi. Chúa phù hộ ông.” Bà Cline nói.
Phiên tòa xét xử kéo dài từ sáng tới giữa chiều tại hội trường trị trấn vào một buổi sáng tháng mười một. Một trận mưa tuyết bất chợt xuất hiện. Những bông tuyết nối đuôi nhau tạo thành những rải đăng ten trắng lạnh phủ khắp bầu không. Đám mây u ám lảng bảng trôi trên bầu trời báo hiệu một cơn bão lớn hơn. Roger Mitchell đã nắm được vụ án, lần này gã làm cả vai trò Luật sư bên nguyên cũng như thẩm phán.
“ Kiểu như một chủ ngân hàng đi vay tiền của chính mình rồi tự mình trả lãi vậy”. Đây là lời của một trong những bồi thẩm viên bị người ta nghe lỏm được trong lúc nghỉ trưa ở quán Mother’s Best. Và dù không ai bất đồng với ý kiến này, cũng không ai nói nó là một ý kiến tồi. Rút cuộc thì nó cũng có cái hợp lý của nó.
Bên nguyên Mizell cho gọi sáu nhân chứng, và Thẩm phán Mizell không bao giờ bác bỏ một câu hỏi nào. Ông Cline làm chứng đầu tiên, và cảnh sát trưởng Barclay làm chứng cuối cùng. Câu chuyện ghép lại khá đơn giản. Và chiều ngày Rebecca Cline bị sát hại, có một buổi tiệc sinh nhật gồm bánh và kem. Một vài người bạn của Rebecca tới dự. Khoảng hai giờ chiều, khi mấy đứa nhỏ đang chơi Gắn đuôi lừa và Ghế âm nhạc, Jim Trusdale vào quán Chuck-a-Luck và gọi một ly whiskey. Gã đội một chiếc mũ rộng vành. Gã uống hết ly đầu, rồi gọi tiếp ly nữa.
Có lúc nào gã bỏ cái mũ ra không? Tỷ như treo nó ở móc chỗ cửa vào? Không ai nhớ được.
“ Tôi chưa bao giờ thấy cậu ta rời cái mũ,” Dale Gerard, phục vụ quán, nói. “ Cậu ta rất thích cái mũ. Nếu cậu ta có bỏ ra thì hẳn là cậu ta đặt ngay bên cạnh. Cậu ta uống ly thứ hai rồi rời đi.”
“ Cái mũ có ở quầy bar lúc anh ta đi khỏi không?” Mizell nói.
“ Không thưa ngài.”
“ Vậy nó có ở trên móc lúc anh dọn quán đóng cửa không?”
“ Không, thưa ngài.”
Vào khoảng ba giờ chiều cùng ngày, Rebecca Cline rời nhà mình ở cuối phía nam thị trấn để đi thăm người bán thuốc ở trên đường chính.Mẹ cô bé bảo cô có thể dùng tiền mừng sinh nhật mua kẹo, nhưng không được ăn vì hôm nay cô đã ăn nhiều kẹo rồi. Đồng hồ điểm năm giờ chiều mà cô bé vẫn chưa về. Ông Cline và vài người đàn ông bắt đầu đi tìm cô. Họ tìm thấy cô bé ở hẻm Barker nằm giữa kho hàng và khách sạn Good Rest.Cô bé bị bóp cổ chết. Đồng đô-la bạc của cô đã mất. Khi người cha đang nức nở ôm cô trong vòng tay thì một nguời đàn ông thấy cái mũ của Trusdale. Nó được giấu bên dưới chiếc váy sinh nhật của cô bé.
Trong giờ nghỉ trưa của ban bồi thẩm, tiếng búa vang lên từ phía đằng sau phía nhà kho, cách hiện trường vụ án chưa tới 90 bước chân. Họ đang dựng bục treo cổ. Công việc được giám sát bởi người thợ mộc lành nghề nhất thị trấn, người có một cái tên thật thích hợp: ngài John House. Cơn bão tuyết đang tới gần. Thông lộ tới pháo đài Pierre có thể sẽ bị mắc nghẽn. Có thể trong một tuần, có khi là cả mùa đông.  Họ không có ý định giam Trusdale trong thị trấn tới mùa xuân. Chẳng lý gì phải làm thế cả.
“Dựng cái này dễ ợt à,” House tán chuyện với mấy người tới xem. “ Đứa nhóc cũng làm được.”
Ông giảng giải lúc gạt cần gạt thì thanh xà dưới cửa sập hoạt động ra sao, rồi phải bôi mỡ vào trục sao cho đúng để không bị kẹt. “ Nếu các bác muốn làm thứ gì như thế này thì các bác sẽ muốn làm chuẩn ngay ở lần đầu tiên.” House nói.
Vào buổi chiều, George Andrews đưa Trusdale lên để chất vấn. Mọi người hò reo la ó. Thẩm phán Mizell gõ mạnh búa lên bàn, cam đoan là sẽ đuổi hết mọi người ra nếu vẫn tiếp tục hành xử bừa bãi.
“ Có đúng là vào hôm đó anh vào quán Chuck-a-Luck không?” Andrews hỏi khi mọi người yên ắng trở lại.
“ Tôi đoán vậy,” Trusdale nói. “ Không thì chắc tôi cũng chẳng ở đây.”
Đám đông rộ lên cười. Thẩm phán Mizell cũng cười. Tay gã dù vẫn gõ búa ổn định trật tự nhưng cũng không nhắc nhở mọi người.
“ Có phải anh gọi hai cốc rượu không?”
“ Vâng thưa ngài, đúng thế. Tiền tôi mang chỉ đủ uống hai cốc,”
“ Rồi mày có thêm một đô-la ngay tắp lự phải không thằng chó!” Abel Hines thét lên.
Mizell cầm búa chỉ vào Hines, rồi chỉ sang Cảnh sát trưởng Barclay đang ngồi ở hàng ghế đầu, “ Cảnh sát trưởng, phiền ngài hộ tống người đàn ông này ra ngoài, phạt tội gây rối trật tự công cộng cho tôi.”
Barclay đưa Hines ra nhưng không phạt ông tội gì mà hỏi ông sao ông làm thế.
“ Tôi xin lỗi, Otis,” Hines nói. “ Nhìn cái mặt thằng đó vẫn cứ nhơn nhơn ra làm tôi không chịu được.”
“ Ra chỗ John House xem ông ta có cần giúp gì không đi Hines” Barclay nói. “ Chuyện lùng bùng này còn chưa xong thì đừng quay lại đây.”
“ Việc chỗ lão House thì cần gì thêm tôi nữa. Tuyết thì rơi chết bà luôn.”
“ Rơi nữa cũng chẳng chết được. Đi đi.”
Trong khi đó, Trusdale vẫn đang cung khai. Vậy là gã đã đầu trần mà rời quán Chuck-a-Luck. Về nhà gã mới phát hiện ra. Gã nói lại đi bộ về thị trấn tìm thì mệt quá. Mà lúc đó trời cũng đã tối rồi.
Mizell xen vào. “ Giờ anh bảo cả tòa phải tin anh đi bộ 4 dặm mà không biết mình không đội mũ?”
“ Chắc tại tôi suốt ngày đội nó nên cứ nghĩ lúc nào nó cũng trên đầu,” Trusdale nói. Mọi người lại rộ lên cười.
Barclay quay lại ngồi cạnh Dave Fisher. “ Họ đang cười gì đó?”
“ Mấy thằng đần như này chẳng cần người treo cổ hộ.” Fisher nói. “ Thằng này toàn tự lấy đá đập chân. Lố bịch thật.”
“ Có phải anh đã gặp Rebecca Cline trong hẻm đó?” George Andrews lớn tiếng hỏi. Trước sự chú ý của mọi người, ông đã tìm được sự tinh tế trước nay vẫn ẩn tàng bên trong đúng lúc sự tình đang lên tới cao trào. “ Có phải anh đã bắt gặp cô bé rồi cướp tiền của cô?”
“ Không, thưa ngài,” Trusdale nói.
“ Anh đã giết cô bé phải không?”
“ Không thưa ngài. Tôi còn không biết cô bé là ai nữa kìa.”
Bà Cline chồm lên hét. “ Chính mày giết nó, quân chó đẻ dối trá!”
“ Tôi không nói dối,” Trusdale nói, và đó là lúc Cảnh sát trưởng Barclay tin gã.
“ Tôi không còn câu hỏi nào nữa,” Andrews nói rồi về chỗ.
Trusdale toan đứng dậy, nhưng Mizell bảo gã cứ ngồi nguyên và trả lời thêm vài câu hỏi nữa.
“ Anh Trusdale, vậy là anh vẫn cứ khăng khăng cho rằng ai đó đã trộm mũ của anh lúc anh đang uống rượu ở Chuck-a-Luck, đội nó rồi đi tới hẻm, rồi giết Rebecca Cline, để cái mũ lại để đổ vấy cho anh?”
Trusdale im lặng.
“ Trả lời câu hỏi đi anh Trusdale.”
“ Thưa ngài. Tôi không hiểu “ đổ vấy” nghĩa là gì.”
“ Anh muốn bọn tôi tin là ai đó đã gài bẫy anh trong vụ giết người tàn ác này?”
Trusdale ngẫm nghĩ, hai tay đan vào nhau. Cuối cùng gã nói, “ Có lẽ ai đó đã cầm nhầm mũ của tôi rồi vứt nó đi.”
Mizell mải mê nhìn mấy bức tranh. “ Ở đây có ai cầm nhầm mũ của anh Trusdale không?”
Không ai nói gì. Những bông tuyết rơi va vào ô cửa sổ tạo nên những thanh âm duy nhất bao trùm lấy hội trường đang chìm trong tĩnh mịch. Cơn bão lớn đầu tiên của mùa đông đã tới. Người dân thị trấn gọi mùa đông này là Lang Đông, do có lũ sói từ Black Hills kết đàn xuống bới rác.
“ Tôi không còn câu hỏi gì nữa,” Mizell nói. “ Vì thời tiết xấu, chúng tôi sẽ bỏ qua mấy khâu phát biểu rườm rà. Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc đưa ra phán quyết. Các quý ngài có ba lựa chọn, vô tội, ngộ sát hoặc giết người cấp độ 1.”
Cảnh sát trưởng Barclay và Dave Fisher lui tới quán Chuck-a-Luck. Abel Hines cũng vừa tới, tuyết rơi phủ đầy lên hai vai khiến lão phải đứng phủi xuống. Dale Gerrard mang những vại bia lớn ra cho họ.
“ Mizell có thể không còn câu hỏi nào nữa,” Barclay nói, “ nhưng tôi có. Tạm gác chuyện cái mũ, còn đồng tiền, sao chúng ta không tìm thấy nó?”
“ Vì nó sợ quá vứt đi luôn rồi,” Hines nói.
“ Tôi không nghĩ thế. Thằng này quá ngốc. Nó mà cầm tiền là lại về Chuck-a-Luck uống rượu tiếp cho xem.”
“ Anh tính nói gì đây?” Dave hỏi. “ Rằng anh tin nó vô tội?”
“ Tôi nói là giá mà chúng ta tìm ra được đồng tiền.”
“ Có khi túi thằng này thủng rơi mất cũng nên.”
“ Túi nó không thủng lỗ nào hết,” Barclay nói. “ Chỉ có một lỗ ở giày, mà cũng không đủ to mà lọt được đồng tiền.” Ông cầm cốc bia lên uống. Gió tuyết vẫn thổi. Mấy bụi-cỏ-lăn bay lập lờ trên Phố Chính khiến khung cảnh vốn lạnh lẽo tiêu điều thêm chất liêu trai.
Hội đồng xét xử làm việc mất một tiếng rưỡi. “ Chúng tôi đã biểu quyết treo cổ Trusdale ở lần bỏ phiếu đầu tiên,” Kelton Fisher nói, “ nhưng chúng tôi muốn sự việc công bằng minh bạch.”
Mizell hỏi Trusdale có muốn nói gì trước khi bản án được thông qua không.
“ Tôi không nghĩ được gì,” Trusdale nói. “ Mỗi việc tôi chưa từng giết cô bé.”
Cơn bão vần vũ ba ngày trời. John House hỏi Barclay xem ông áng chừng Trusdale nặng bao nhiêu cân. Lúc Barclay trả lời là ông đoán khoảng 64 cân, House đi làm một người nộm bằng vải bố rồi nhồi đá vào, mang ra chỗ nhà trọ cân dòm cái kim chạy đúng 64 cân thì thôi. Sau đó ông mang treo lên trước sự mục kích của một nửa thị trấn. Cuộc chạy thử khá tốt.
Vào đêm trước ngày hành quyết, trời quang mây tạnh. Cảnh sát trưởng Barclay bảo Trusdale rằng gã có thể ăn bất cứ thứ gì gã muốn.Trusdale gọi một đĩa Bít tết và trứng cùng một đĩa cá hồi ăn kèm với nước sốt. Barclay bỏ tiền túi ra mua cho gã; rồi ông ra bàn ngồi cậy móng tay và nghe tiếng dao dĩa va nhau vang lên đều đều từ trong phòng giam. Khi Trusdale ăn xong, ông đi vào. Trusdale đang ngồi trên giường. Cái đĩa sạch bách. Barclay nghĩ hẳn là gã đã liếm như chó tới giọt sốt cuối cùng. Gã đang khóc.
“ Tôi vừa chợt nghĩ ra,” Trusdale nói.
“ Gì vậy Jim?”
“ Nếu mai họ treo cổ tôi, vậy tôi sẽ xuống mồ với cả bít tết và trứng. Bụng tôi tiêu hóa không nổi nữa rồi.”
Barclay im lặng trong thoáng chốc. Ông thấy sợ. Ông không sợ cái viễn cảnh Trusdale nhắc đến mà ông sợ vì gã đã nghĩ tới cái viễn cảnh ấy. Rồi ông nói, “ Lau mũi đi.”
Trusdale quệt mũi.
“ Giờ nghe này, Jim, vì đây là cơ hội cuối cùng của cậu. Cậu đã ở trong quán bar vào chiều ngày hôm đó. Lúc đó không có nhiều người lắm đúng không?”
“ Tôi đoán vậy.”
“ Vậy thì ai đã lấy mũ của cậu? Nhắm mắt lại. Nghĩ thật kỹ đi.”
Trusdale nhắm mắt lại. Barclay chờ đợi. Sau cùng Trusdale mở mắt ra, đôi mắt vẫn đương hoen đỏ những nước mắt. “ Tôi còn không nhớ được hôm đó có đội không nữa.”
Barclay thở dài. “ Đưa tôi cái đĩa, cẩn thận con dao.”
Trusdale chuyển cái đĩa cùng con dao với cái dĩa qua song sắt. Gã nói gã muốn uống bia. Barclay bèn mặc chiếc áo khoác dày và đội lên đầu cái mũ cao bồi rồi đi tới Chuck-a-Luck và mua từ Dale Gerard một xô bia. Abel Hines cũng vừa uống xong cốc rượu. Ông đi theo Barclay.
“ Ngày mai trọng đại đây,” Barclay nói. “ Đã mười năm rồi không có vụ treo cổ nào. May mắn thì sẽ lại có mười năm như thế nữa. Lúc đấy thì tôi thất nghiệp luôn. Ước gì tôi thất nghiệp ngay bây giờ.”
Hines nhìn Barclay. “ Anh thực sự nghĩ hắn không giết cô bé.”
“ Nếu không phải gã.” Barclay nói, “ thì tên sát nhân vẫn còn lởn vởn đâu đó.”
Cuộc treo cổ diễn ra vào 9 giờ sáng hôm sau. Trời lồng lộng gió, bồi thêm cho cái lạnh vốn đã tái tê thêm phần cắt da cắt thịt. Nhưng gần như cả thị trấn kéo đi xem. Mục sư Ray Rowles đứng cạnh John House trên đoạn đầu đài. Cả hai người nào áo nào khăn mà vẫn không kháng cự được với hơi giá của Mẹ Thiên Nhiên.  Trang Kinh Thánh của mục sư Rowles lật phật bay. Chiếc mũ trùm đầu bằng vải màu đen nhét dưới thắt lưng của House cũng đang dập dờn trong gió.
Barclay áp giải Trusdale tới đài treo cổ. Hai tay còng sau lưng, Trusdale vẫn bình tĩnh cho tới khi leo lên các bậc thang. Gã bắt đầu khóc và vùng vẫy.
“ Đừng làm thế,” gã nói. “ Xin đừng làm thế với tôi. Đừng hại tôi. Đừng giết tôi.”
Gã tuy nhỏ người nhưng rất khỏe, Barclay ra hiệu Dave Fissher lại giúp. Hai người cùng gồng mình lên khống chế Trusdale, vừa né gã vùng mình vừa đẩy gã lên hết mười hai bậc thang gỗ. Một lần gã vùng mạnh tới mức cả ba suýt gã, và tay gã thì chút nữa đã với lên nắm được lấy hai người.
“ Buông xuôi và chết như một trang nam tử đi!” có ai đó hét lên.
Đứng trên bục, Trusdale im lặng trong giây lát, rồi khi mục sư Rowles bắt đầu bài Thánh thi 51thì gã bắt đầu gào thét. “ Như một ả đàn bà bị xoắn ti,” ai đó đã nói sau đó trong quán Chuck-a-Luck.
“ Đức Chúa Trời ôi! Xin hãy thương xót tôi tùy lòng nhân từ của Chúa,” Rowles đọc, cao giọng lên để át đi tiếng gào thét của kẻ mang án tử. “ Xin hãy xóa các sự vi phạm tôi theo sự từ bi rất lớn của Chúa.”
Khi Trusdale thấy House lấy cái mũ trùm đầu màu đen ra thì gã bắt đầu thở hổn hển như một con chó. Gã lắc đầu liên tục, cố gắng né cái mũ. Tóc gã bay bay. House kiên nhẫn theo từng cú né đầu của Trusdale, trông như một người đàn ông đang thuần phục một con ngựa bất kham.
“ Cho tôi nhìn dãy núi!” Trusdale rống lên. Nước mũi gã nhểu ra. “ Tôi sẽ ổn nếu ông cho tôi nhìn dãy núi một lần nữa!”
Nhưng House chỉ tròng cái mũ vào đầu Trusdale và kéo nó trùm xuống tới đôi vai đang run rẩy của gã. Giọng mục sư Rowles vẫn đều đều vang. Trusdale thì đang cố né cái cửa sập. Barclay và Fisher đẩy gã về đúng miệng cửa. Phía bên dưới có ai đang khóc. “ Chạy đi mấy anh nài!”
“ Nói Amen đi,” Barclay nói với mục sư Rowles. “ Vì Chúa, nói Amen đi.”
“ Amen,” mục sư Rowles nói rồi lùi ra sau gập cuốn kinh thánh lại.
Barclay hướng House gật đầu. House gật cần. Thanh xà bên dưới thụt lại và cửa sập rơi xuống. Trusdale cũng rơi xuống. Cổ gã gãy phát ra một tiếng rắc nhỏ. Chân gã co lên, đầu gối gần chạm tới cằm, rồi xong lại rũ ra. Dưới chân gã nhỏ long tong nước, nhuộm vàng một mảng tuyết.
“ Chết mẹ mày đi thằng chó!” Bố Rebecca Cline hét lên. “ Són đái ra như một con chó. Con mẹ mày xuống địa ngục vui vẻ nhé!!” Có vài người vỗ tay.
Mọi người ở lại cho tới khi xác Trusdale được mang lên cái thùng xe đã áp giải gã tới thị trấn. Đầu gã vẫn đội cái mũ đen. Rồi mọi người giải tán.
Barclay trở lại nhà tù và ngồi trong phòng giam của Trusdale. Ông ngồi trong đó mười phút. Trời rét căm căm, miệng ông phả ra từng làn hơi trắng. Ông biết mình đang đợi cái gì và rút cục nó cũng đến. Ông nhặt lấy cái xô nhỏ mà ông dùng để mua bia lần cuối cho Trusdale rồi ông nôn vào đó. Sau đó ông vào văn phòng và đốt lò sưởi lên.
Ông ngồi đó trong 8 tiếng, cố đọc một quyển sách. Rồi Abel Hines đi vào nói, “ Otis, anh cần phải tới nhà tang lễ. Tôi có cái này muốn cho anh xem.”
“ Cái gì?”
“ Không. Anh sẽ muốn nhìn tận mắt cơ.”
Vậy là họ đi tới chỗ dịch vụ đám ma và phòng tang lễ Hines. Ở phòng trong,  Trusdale đang nằm trần truồng trên bàn lạnh. Mùi cứt và hóa chất lẩn vẩn trong phòng.
“ Cứ bị treo cổ chết là người ta lại bậy ra như thế,” Hines nói. “ Dũng cảm trời thì cũng thế. Không khống chế được. Lúc đấy cơ hậu môn nó làm chủ.”
“ Và?”
“ Anh ra phía này. Tôi cá là mấy anh đã chứng kiến nhiều vụ kinh tởm hơn đống cứt đái này rồi.”
Đống bầy nhầy đang đầy trên sàn. Có cái gì đó lập lòe trong đó. Barclay nhích lại gần và nhìn thấy nó chính là đồng đô-la. Ông với tay lấy nó ra.
“ Tôi thật không hiểu,” Hines nói. “ Thằng chó này được giam kỹ thế cơ mà.”
Trong góc phòng có cái ghế. Barclay bước ra ngồi lên cái bịch nghe nặng nề như tâm trạng của ông. “ Hẳn là thằng này đã nuốt đồng tiền ngay khi gã nhìn thấy ánh đèn lúc chúng ta kéo đến. Và cứ lần nào ỉa ra là nó lại chùi sạch đi nuốt lại.”
Hai người đàn ông đưa mắt nhìn nhau.
“ Anh đã tin nó.” Sau cùng Hines nói.
“ Ừ, tôi ngốc thật.”
“ Có lẽ điều đó nói lên con người anh hơn là về thằng Trusdale.”
“ Từ đầu chí cuối nó cứ khăng khăng mình vô tội. Cứ như thể nó đang đứng trước Ngai Thánh mà thề thốt vậy.”
“ Đúng,”
“ Tôi không hiểu. Giấu diếm thì nó cũng bị treo cổ. Khai ra thì nó cũng vẫn bị treo cổ. Anh có hiểu không?”
“ Tôi còn không hiểu tại sao mặt trời lại mọc nữa. Anh định làm gì với đồng tiền? Trả lại cho bố mẹ cô bé chăng? Có lẽ sẽ tốt hơn nếu anh không làm vậy, bởi vì….” Hines nhún vai.
Bởi vì nhà Clines đã biết ngay từ đầu. Mọi người trong thị trấn đã biết ngay từ đầu. Chỉ có mình ông không biết. Ông thật ngốc làm sao.
“ Tôi không biết phải làm gì với nó nữa,” ông nói.
Tiếng hát từ nhà thờ nương theo làn gió vang mãi ra xa. Bài kinh ngợi ca Đức Chúa….
2015
Vũ Minh Đức dịch từ bản tiếng Anh đăng trên The New Yorker